Đề bài: Thơ Hàn Mặc Tử chủ yếu là thơ trữ tình hướng nội. Anh (chị) hãy bình giảng khổ thơ sau trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để làm sáng tỏ ý kiến trên:
“Gió theo gió, mây theo mây,
Nước buồn hoa ngô nằm
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”
Bài giảng Đây thôn Vĩ Dạ – Cô Thúy Nhàn (giáo viên )
Huế đẹp và thơ mộng. Sông núi hùng vĩ. Con gái Huế xinh đẹp và đằm thắm. Nếp sống tao nhã của núi sông Ngự Hương đã trở thành ấn tượng sâu sắc và tình cảm đối với nhiều người gần xa:
“Đã đến Huế đôi lần mộng mơ
Tôi ôm lấy một tình yêu ngọt ngào…”
Thơ viết về Huế có nhiều bài hay. Điển hình là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử (1912-1940), một nhà thơ lỗi lạc trong phong trào “Thơ mới”. Bài thơ có 3 khổ thơ thất ngôn nói về cảnh vật và cô gái Vĩ Dạ. trong nỗi nhớ với bao cảm giác bâng khuâng, man mác, khắc khoải.
Vĩ Dạ, ngôi làng cổ xinh đẹp nằm bên bờ Hương Giang của cố đô Huế, qua hồn thơ Hàn Mặc Tử, hơn 60 năm qua đã trở nên gần gũi thân thương với biết bao người. Đây là khổ thơ thứ hai của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
“Gió theo gió, mây như mây”
Nước buồn hoa ngô nằm
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh sắc thôn Vĩ khi “nắng mới lên”… – Khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử nhớ về một miền sông nước bao la, mênh mông, một không gian nghệ thuật với bao niềm thương nhớ. hoài niệm. Có gió, nhưng “gió cuốn theo chiều gió”. Cũng là mây, nhưng là “đường mây”. Mây và gió, hai lối, hai lối:
“Gió theo gió/ mây theo mây”
Nhịp 4/3, với hai vế đối lập, gợi tả một không gian gió mây ngăn cách, như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Các từ “gió” và “mây” được lặp lại hai lần ở mỗi tiểu đoạn gợi cả một bầu trời bao la, rộng mở. Nhà thơ đã và đang sống trong cảnh chia lìa, biệt ly nên cảm nhận mây gió đã phân ly như tình yêu và lòng người. Ngoài cảnh mây gió là tâm trạng của Hàn Mặc Tử.
Không một bóng người xuất hiện trước cảnh mây gió. Nhưng chỉ có “Nước buồn hoa ngô nằm”. Khung cảnh mang nhiều cảm xúc. Dòng sông Hương lững lờ trôi, trong tâm trí nhà thơ đã biến thành “dòng buồn”, càng trở nên mơ hồ, xa vắng. “Nỗi buồn” là nỗi buồn còn hơn cả ruột gan, một nỗi buồn day dứt triền miên, day dứt mãi trong tâm hồn con người. Hai chữ “buồn” là cách người Huế nói. Hai bên bờ sông cũng vắng tanh, chỉ còn thấy những “hoa bắp tay”. Từ “lay” gợi lên những bông ngô đung đưa trong làn gió nhẹ. Hoa bắp, loài hoa bình dị của vùng quê, cũng mang trong mình tình người, tâm hồn con người.
Hai câu thơ 14 chữ với bốn chất thơ (gió, mây, dòng nước, hoa ngô đồng) đã hội tụ về cảnh sắc thôn Vĩ. Hình như đó là cảnh buổi chiều? Hàn Mặc Tử tả ít mà gợi nhiều, tượng trưng và ấn tượng. Cảnh bên ngoài tách biệt, buồn lặng lẽ diễn tả một trạng thái tâm hồn: nỗi buồn sâu thẳm xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một khung cảnh nên thơ, cảnh đêm trăng trên Hương Giang. “Dòng sông buồn” đã kì diệu biến thành “dòng sông trăng” thơ mộng:
“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”
Đây là hai bài thơ hay của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, là kết tinh rực rỡ của nghệ thuật lãng mạn tài hoa. Một vần điệu tài tình. Từ “rằng” ở cuối câu 3 gieo vần với từ “ấy” ở đầu câu 4, tiếng vần như lời thủ thỉ hỏi “có chở trăng về kịp đêm nay không?”. “Thuyền ai” chỉ là một chút thôi, gợi bao nỗi ngỡ ngàng bơ vơ, tưởng như quen mà lạ, gần mà xa. Con đò mồ côi nằm trên bến đợi “sông trăng” là một nét vẽ nên thơ và độc đáo. Hòn đá có chữ “Thuyền ai cập bến Cô Tô” hiện lên trong ánh trăng và tiếng quạ gọi sương trong thơ Trương Kế đời Đường. Có một “sông xuân không trăng soi” trong “Xuân hoa nguyệt nguyệt” của Trương Nhược Hư, cách đây 1300 năm. Còn có cảnh “Gió trăng chứa đầy thuyền” (Nguyễn Công Trứ). Còn có “Trăng sông Trà như gương soi nước bạc” (Cao Bá Quát). Qua đó ta thấy hình ảnh “sông trăng” thật mới mẻ và sáng tạo. Cả hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu thơ nào cũng có vầng trăng. Ánh trăng soi sáng dòng sông, con thuyền và bến tàu. Thuyền không chở người (vì người ở xa) mà chỉ “chở trăng”. Đành phải “quay ngược thời gian” vì xa cách bao năm mong ngóng. Con thuyền tình ái đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên vắng vẻ vì “thuyền ai” chỉ là con đò mồ côi.
Đằng sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và dòng sông trăng. Cảnh đẹp mơ màng. Cả ba bức tranh đều thể hiện một nỗi niềm, tâm trạng cô đơn, nhớ nhung đối với cảnh và người thôn Vĩ. Như đã biết, thời trẻ, Hàn Mặc Tử học ở Huế, có mối tình đơn phương với cô gái thôn Vĩ mang tên một loài hoa. Đối với nhà thơ tài hoa, đa tình và bất hạnh, sống trong cảnh cô đơn bệnh tật, nhớ về Vĩ Dạ là nhớ về cảnh cũ. Cành lá “gió bay theo gió, mày mây bay”, cảnh “thuyền ai cập bến sông trăng” là một cảnh đẹp nhưng buồn. Buồn vì chia ly, xa cách, cô đơn và vô vọng.
Khổ thơ trên, từng câu, từng chữ, từng câu thơ đều thấm đượm tình thương nhớ và một “nỗi buồn” cô đơn. Đoạn thơ tả cảnh ngụ tình thật đặc sắc. Thơ Hàn Mặc Tử đích thực là thơ trữ tình hướng nội “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”…
Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:
day-thon-en-da.jsp
Các bộ đề lớp 11 khác