Suy nghĩ về những lời than thở hay nhất
Đề bài: Suy nghĩ về bài hát Tự luyến
Bài giảng: Đôi câu thương tiếc – Cô Trường San (giáo viên )
Ca dao tự sự là những câu hát được cất lên từ bao mảnh đời nhỏ bé bất hạnh, nghèo khó như phụ nữ, nông dân. Những bài ca dao này vừa là lời than khóc cho chính mình, cho trách nhiệm và thể hiện tinh thần phản kháng chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định khát vọng tự do, giải thoát của kiếp người lầm than. Trong kho tàng ca dao vô cùng phong phú của dân tộc ta, ba bài ca dao dưới đây để lại trong em nhiều ấn tượng và cảm xúc nhất.
1. “Nước non một mình vất vả
…Cho cạn ao kia để con được gầy”
2. “Tiếc kiếp con tằm
…Không ai nghe thấy kể cả khi anh ta khóc ra máu”
3. “Thân em như trái trôi
Gió thổi sóng biết xô vào đâu.”
Điểm chung giữa ba bài ca dao là đều sử dụng thể thơ sáu tám truyền thống của dân tộc để bộc lộ cảm xúc. Đây là thể thơ đơn giản về niêm luật, đặc biệt về cách ngắt nhịp, gieo vần nên có khả năng diễn đạt mọi cung bậc cảm xúc của con người. Đặc biệt, cả ba câu ca dao đều sử dụng những sự vật, con vật gần gũi, nhỏ bé, đáng thương như con cò, con tằm, con kiến, con sếu, quả trôi,… làm hình ảnh tượng trưng. So sánh ẩn dụ để diễn tả thân phận con người. Đồng thời, cả ba câu ca dao đều sử dụng mô-típ quen thuộc như “thân cò, thân cò, tủi hờn” để mở đầu cho mỗi lời than thở. Đây đều là những nét tiêu biểu của ca dao dân ca Việt Nam.
Bài ca dao đầu tiên là lời than thở đau lòng của người phụ nữ nông dân cho mình và cho những đứa con của mình. Từ lâu, hình ảnh những con cò lang thang, miệt mài kiếm ăn vào ban đêm trên cánh đồng đã trở thành nỗi ám ảnh thương tâm trong lòng người dân. Trong câu ca dao này, “thân cò” và “con cò nhỏ” được dùng làm hình ảnh ẩn dụ cho số phận của người phụ nữ nông dân nghèo khổ, tôi và đứa con nhỏ. Hai câu đầu, với từ lóng “bối rối” kết hợp với thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” cho thấy những vất vả, gian nan, vất vả của một người phụ nữ: “Nước non một mình vất vả/Thân cò lên thác đổ”. xuống ghềnh ngay bây giờ”. Giữa cánh đồng mênh mông quạnh hiu, thân cò quanh năm vất vưởng kiếm ăn. Dáng vẻ gầy guộc, mệt mỏi của con cò kia cũng giống như cuộc đời bất hạnh, khổ cực của người phụ nữ nông dân, một mình đối mặt với giông tố cuộc đời. Cụm từ “bây giờ” chỉ một thời gian dài đau khổ và khó khăn. Bài hát như tiếng khóc đầy tiếc nuối cho số phận.
Cuộc sống khó khăn thậm chí còn không mang lại cho người phụ nữ nông dân một chút bình yên nào, những thế lực tà ác không bao giờ buông tha họ. Chúng tạo ra bao nhiêu cay đắng khiến người nông dân lao đao. Không biết chia sẻ cùng ai, những mảnh đời bất hạnh ấy đã gửi vào câu ca dao tiếng kêu than ai oán, rưng rưng: “Ai làm cho đầy bể kia/ Cho ao kia cạn đi để con gầy đi”. Đại từ nhân xưng “ai” được dùng thay cho từ phiếm chỉ tố cáo những thế lực gây đau khổ cho con người. “Bể đầy” “Ao cạn” là những hình ảnh tượng trưng cho sự bất công, bất công trong cuộc sống. Chữ “cho” được lặp lại ba lần trong bài hát như tiếng nấc nghẹn ngào. Đặc biệt, hình ảnh “con cò nhỏ” xuất hiện ở cuối bài càng làm tăng thêm tính bi tráng của lời than thở. Đời mẹ đã khổ, cực nhọc nhưng đời con trước sự áp bức, bóc lột của các thế lực phong kiến càng đau đớn, gai góc hơn. Bài ca dao vừa là lời than thở vừa là tiếng nói phản kháng, tố cáo gay gắt tội ác của bọn vua quan, quan lại vì sưu cao thuế, vì nô lệ đã để lại bao đau khổ cho bao đời. .
Tiếng than thở của người nông dân không bao giờ ngớt khi những bất công của cuộc sống vẫn đè nặng lên vai họ. Tiếp nối mạch cảm xúc ở câu ca dao thứ nhất, câu ca dao thứ hai tiếp tục là lời than thở đầy xót xa về số phận khó khăn, bất hạnh của người nông dân.
“Tiếc thay phận con tằm
…Không ai nghe thấy kể cả khi anh ta khóc ra máu”
Ca dao đều là những ẩn dụ độc đáo, lấy hình ảnh những con vật nhỏ bé gắn với đặc điểm sống của chúng để ẩn dụ cho số phận người nông dân. Điệp khúc “tiếc ơi” được lặp lại 4 lần trong câu ca dao như mở đầu cho mạch cảm xúc da diết, xót xa.
Điệp khúc thứ nhất “Tiếc thương thân phận con tằm/ Em phải nằm dài ăn nhiều”, tằm là loài vật nhỏ bé, đáng thương, cần mẫn nhả ra những cuộn tơ ấy và để người khác mang đi. và con tằm cũng kết thúc vòng đời của nó. Giống như một người nông dân làm việc chăm chỉ, nhưng công lao của anh ta không những không được ghi nhận mà còn thường xuyên bị bòn rút sức lao động. Cùng chung số phận như kiếp con tằm, những chú kiến nhỏ bé xíu trong điệp khúc thứ hai “Thương con kiến nhỏ/ Không tìm được phải đi kiếm ăn” cũng lang thang ngược xuôi, vất vả kiếm ăn nhưng vẫn luôn phải sống trong cảnh nghèo khó. Cuộc sống của những con kiến cũng là ẩn dụ cho cuộc sống của người nông dân. Đến điệp khúc thứ ba “Buồn thay hạt tránh mây/Chim bay mỏi cánh biết đến bao giờ” là sự đồng cảm chua xót về một kiếp người phiêu bạt, vô định, không chốn dừng chân. Đặc biệt điệp khúc thứ tư “Tiếc con cuốc giữa trời/ Dầu kêu ra máu chẳng ai nghe” khiến ta không cầm được nước mắt trước hình ảnh con cuốc cô đơn giữa đời kêu ra máu. , trái tim tan nát, nhưng rồi đổi lại là sự vô vọng, bất lực. Cuộc đời của người nông dân thấp cổ bé họng là thế, cuộc đời đầy bất công, dằn vặt không biết bày tỏ cùng ai. Biết bao cảnh ngộ, biết bao số phận đáng thương, đáng thương được gợi ra trong câu ca dao đầy tủi thân ấy. Ca dao vừa là lời than thở đầy xót xa, tuyệt vọng vừa là tiếng nói tố cáo những bất công, bất công trong xã hội, những bất công trong xã hội khiến người nông dân phải chịu biết bao khổ cực.
Không chỉ có nông dân, trong xã hội phong kiến, người phụ nữ cũng phải chịu nhiều bất công, cay đắng. Quan niệm “trọng nam khinh nữ”, truyền thống “tam tòng, tứ đức” như chiếc xiềng xích vô hình siết chặt cổ người phụ nữ, bóp nghẹt quyền tự quyết, quyền hạnh phúc của họ. Bài ca dao thứ ba là tiếng kêu đau lòng của người phụ nữ lắng nghe lòng mình:
“Thân em như trái trôi
Gió cuốn sóng biết xô vào đâu”.
Mô típ “thân em” mở đầu bài hát vừa tha thiết vừa xúc động. Người phụ nữ trực tiếp xuất hiện trong câu thơ, lên tiếng than thở với chính mình, tiếng “em” nghe giản dị, thùy mị, nữ tính. Hình ảnh so sánh ẩn dụ mang đậm sắc thái Nam Bộ “trái bần” là loại trái nhỏ, có vị vừa chua vừa chát, sống ở ven sông, khi chín trái rụng xuống sông rồi trôi theo dòng nước. nước. . Tính cách và vòng đời của cả trái bần có nét tương đồng với người phụ nữ, cũng đắng cay, hiu hắt, bồng bềnh, vô định. Câu hỏi tu từ “gió thổi sóng nào biết tâm nơi đâu” vừa là sự trăn trở, vừa là sự sợ hãi trước cuộc đời của người phụ nữ. “Gió thổi dập sóng” tượng trưng cho những giông bão của cuộc đời, người phụ nữ vốn đã yếu đuối, nhỏ bé làm sao có thể đứng vững trước những giông tố ấy. Bài ca vừa là lời than khóc cho thân phận nhỏ bé, tội nghiệp của người phụ nữ, là nỗi lo lắng, bất an về tương lai bất định, đồng thời là lời trách móc đầy căm phẫn về xã hội phong kiến. chà đạp lên phụ nữ một cách bất công.
Như vậy có thể thấy cả ba câu ca dao đều là những lời than thở đầy tủi thân, tiếc nuối. Đọc những vần thơ, chúng ta không khỏi xúc động, ngậm ngùi cho những số phận ấy. Ta hiểu thêm về cuộc sống của ông cha ta ngày xưa, họ đã phải chịu bao cay đắng, khổ cực như thế nào, từ đó thêm yêu và trân trọng cuộc sống hôm nay.
Xem thêm các bài văn mẫu về tự sự, lập luận, suy nghĩ, cảm nghĩ lớp 7:
Các bài giải bài tập lớp 7 sách mới có:
nhung-cau-hat-than-than.jsp
Giải bài tập lớp 7 theo sách mới môn học