Đề bài: Phân tích bài thơ “Vịnh Động Thiên Vương” của Cao Bá Quát
“Mùng bảy hội thi, mùng tám hội dâu, mùng chín hội về với Gióng”. (Dân ca quan họ Bắc)
Từ bao đời nay, hội Gióng là một trong những lễ hội lớn của nhân dân ta. Vào ngày mồng 9 tháng giêng âm lịch, hàng vạn người kéo về làng Gióng, xưa thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội để dự hội. Đề tài Thánh Gióng đã rêu phong, nhưng đôi câu đối của Cao Bá Quát, nét chữ đậm nét, son phấn rực rỡ, vẫn còn ấn tượng với cảm hứng sử thi hào hùng:
“Phá tặc ba tuổi hiền, Đãng Vân hận chín trời” (Ba tuổi mà phá giặc, Bay lên mây vẫn giận chín trời). trời còn thấp)
Có lẽ chính đôi câu đối ấy đã thôi thúc Cao Bá Quát viết tiếp bài thơ “Vịnh Động Thiên Vương” theo thể thất ngôn bát cú đường luật. Đoạn thơ đã bám sát vào truyền thuyết Thánh Gióng để ca ngợi và khẳng định một cách hùng hồn chiến công của người anh hùng huyền thoại.
Ở hai câu thơ trong tựa, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để làm nổi bật tầm vóc kì diệu của người con làng Gióng. “Ba năm” với “một sớm”, “ẩn mình” với “trỗi dậy” với thời gian, dài ngắn, thoắt ẩn thoắt hiện, thoạt đầu không ai biết nhưng bỗng chốc, chỉ một buổi sáng đã làm nên sự nghiệp phi thường. Câu thơ gợi lên sức mạnh hội tụ, dồn nén và trỗi dậy của dân tộc ta thời Hùng Vương thứ 6:
“Long ẩn ba năm không ai biết, một hôm oanh oanh liệt liệt”
Tuổi thơ “ba năm không nói không cười” của Gióng đã được Cao Bá Quát viết thành một ý thơ độc đáo: “ba gánh tiềm long”. Gióng được so sánh với rồng ở ẩn ba năm. Truyền thuyết về Thánh Gióng thường nhắc đến con số 3: Sau 3 năm Gióng mới biết nói. Gióng xin vua 3 thứ vũ khí giết giặc: ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt. Gió lớn nhanh như gió:
“Ăn bảy nắm cơm, ba ăn đậu Uống một ngụm nước cạn non sông”
Nói đến sự phi thường của Gióng, Cao Bá Quát có cách nói súc tích bằng hình ảnh ẩn dụ, cấu trúc ngôn ngữ tương phản làm nổi bật nguồn gốc và diện mạo của người anh hùng sử thi thần kì. Rất tiếc, câu thơ dịch thứ hai không hay bằng câu thơ Trung Quốc.
Hai câu trong phần thực rất đặc sắc. Ngôn ngữ thơ trang trọng. Những hình ảnh thơ kì ảo mang màu sắc thần thoại: “Kim tiên” (roi vàng), “Thiên thanh” (tiếng trời), “Tê ma” (ngựa sắt), “kích” (tích xưa, dấu xưa). Những động từ thể hiện sức mạnh phi thường của người anh hùng huyền thoại: “phá lỗ” (tiêu diệt quân thù), “xốc” (chấn động), “vô” (bay lên không trung), “lạ” (lạ). Truyền thuyết kể rằng: Gióng nhảy lên ngựa sắt, tiếng ngựa hí vang trời, phun lửa, Gióng thúc ngựa xông thẳng vào giặc Ân, vung roi sắt đánh giặc Ân, giặc chết như ngả rạ. . Cao Bạt Quát đã tạo ra “roi vàng”. Câu thơ được sửa lại, thể hiện hình ảnh Thánh Gióng ra trận, thắng trận rồi cùng ngựa bay về trời. Cao Bát Quát đã chọn những từ đẹp nhất để viết nên câu thơ hay nhất:
“Kim tiên phá thiên hố, rung thiết mã bất tiên” (Chuông vàng diệt địch, sấm lên ngựa sắt xưa lạ)
Câu thơ dịch đã đi quá xa so với nguyên tác: “sấm ầm ầm”, “thỉnh thoảng lạ lùng”,… Những từ hình ảnh như “nghìn trùng điệp điệp…” không thể dịch được.
Bài văn ca ngợi công đức, sự oai hùng của Phù Đổng Thiên Vương, giữa không gian bao la từ “trời Việt” đến “Cây cỏ” không thể phai mờ hình ảnh người anh hùng. Công lao to lớn của Thánh Gióng còn mãi mãi với quê hương. Uy thế vang dội của Phù Đổng Thiên Vương còn làm cho cây cối đất Ân (quân phương Bắc) khiếp sợ:
“Kỷ lục cõi Việt so với trời đất, Oai hùng đánh tan quân Ân sợ cả cỏ cây”.
Câu thơ của Cao Bá Quát vừa thể hiện niềm tự hào dân tộc, ca ngợi chiến tích, công lao của người anh hùng, vừa nhắc lại chi tiết hào hùng được nhắc đến trong truyền thuyết: Gậy sắt gãy, Gióng nhổ ra. Tre đánh tan giặc Ân. Cho đến ngày nay, dân gian vẫn có truyền thống:
“Kẻ gãy mũi, kẻ bể tai, Kẻ kia chết vì tre gai ngà voi”.
Với trí tưởng tượng phong phú tuyệt vời, Cao Bá Quát đã thỏa sức viết nên những vần thơ thậm chí mang âm điệu sử thi, thể hiện ý chí tự cường tự cường của nhân dân ta từ bao đời nay khi nhắc đến Thánh Gióng.
Nói đến đền chùa là để bày tỏ lòng biết ơn theo truyền thống đạo lý của dân tộc. Mỗi khi ngọn gió vi vu thổi qua rặng thông, bao đời nay, những người từng đến thăm đền thờ Thánh Gióng vẫn nghĩ rằng năm nào đánh thắng giặc Ân, Thánh Gióng đã trở về:
“Chùa xưa gió thổi reo, Tướng quân thắng trận về đây”
Hai dòng kết là một khúc khải hoàn vang dội, từ sự nhạy cảm của nhà thơ. Quá khứ và hiện tại, tổ tiên và con cháu gắn bó chặt chẽ với nhau, bảo vệ và phát huy truyền thống yêu nước hào hùng của dân tộc. Cùng với mạch cảm xúc đó của nhà thơ họ Cao, sau này nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết:
“Đất nước ta Đất nước của những người chưa bao giờ chết Đêm thì thầm tiếng đất Ngày xưa nói về” (Đất nước)
Thơ hay là ở cảm xúc và hình ảnh. Thơ đẹp là ở trí tưởng tượng phong phú, làm cho lời thơ cất lên. Nghe tiếng gió thổi qua rặng thông ở đền thờ Thánh Gióng, Cao Bá Quát ngỡ như tiếng đoàn quân thắng trận trở về. Trên một nghìn bài thơ chữ Hán Cao Bá Quát để lại, người đọc thấy có nhiều bài ca ngợi các danh nhân dân tộc như Thánh Gióng, Bà Trưng, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Đặng Tất,… Đó là những bài thơ thể hiện tình cảm nồng nàn. lòng yêu nước, tự lực tự cường và lòng tự hào dân tộc.
“Vịnh Thiên Vương Phù Đổng” là một bài thơ tuyệt tác. Ngôn ngữ trang trọng, hình ảnh tráng lệ, giàu liên tưởng và cảm xúc – Từ truyền thuyết, Cao Bá Quát đã sáng tạo nên bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật với giọng điệu sử thi, tái hiện kỳ tích. của Thánh Gióng, vị anh hùng dân tộc buổi bình minh của lịch sử nước nhà. Đoạn Gióng mãi mãi là biểu tượng cho sức mạnh quật khởi của dân tộc ta, mãi mãi là ước mơ của tuổi thơ Việt Nam hôm nay như Chế Lan Viên đã viết:
“Chú bé nào cũng mơ ngựa sắt, sông nào cũng muốn biến thành Bạch Đằng”. (“Đất nước chưa bao giờ đẹp thế này”)
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 9:
Mục Lục Văn Mẫu | Văn học hay 9 theo từng phần:
Các bộ đề lớp 9 khác