Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương hay nhất – Ngữ văn lớp 11

Đề bài: Phân tích bài thơ “Vĩnh Khoái Thi Hương” của Trần Tế Xương.

Tú Xương sinh năm 1870, năm 15 tuổi bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885 không đậu. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều trượt. Khoa Giáp Ngọ 1894, mới đỗ tú tài, năm ấy 24 tuổi và từ đó chính thức đổi tên là Tú Xương. “Thị không ăn ớt nên cay”. Tú Xương còn lều chõng thêm 4 khoa thi: Khoa Đinh Dậu 1897, Khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và Khoa Bính Ngọ 1906. Nguyễn Tuân kể: “Rồi đầu năm sau Tú Xương mất ( 1907). ) Tức là Tú Xương chết rồi, chỉ đến khi mày chết thôi”.

“Chỉ là một thứ văn học là nhảm nhí,

Trăm năm có ích lợi gì?”

(Buồn thi hỏng)

Kỳ thi Đinh Dậu đối với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: nhiều tâm huyết và hy vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ 1894) ông đã đỗ tú tài nên trong kỳ thi này ông hy vọng sẽ đỗ cử nhân và bước lên bậc danh vọng: “Ông võng đi trước, võng bà theo sau”.

Nhan đề bài thơ còn có tên khác là “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”. Bài thơ tả lễ vinh danh của kỳ thi Hương ở trường Nam học năm 1897, qua đó nói lên nỗi tủi hổ nước mất nhà tan và nỗi chua xót của kẻ sĩ đương thời.

Hai câu đề giới thiệu nét mới của khoa thi Đinh Dậu:

“Nhà nước mở khoa ba năm một lần,

trường Nam lẫn trường Hà”.

Khoa thi ngày xưa là của vua và triều đình nhằm mục đích chọn hiền tài, chọn người tài làm quan phò vua, giúp nước. Lúc bấy giờ, nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, khoa thi vẫn tiến hành bằng chữ Hán theo tục cũ “ba năm mở khoa”, nhưng là vào cuối mùa. Và người khởi xướng những kỳ thi đó là Nhà nước – Chính phủ Bảo hộ. Câu thơ thứ hai thể hiện tính chất hỗn tạp của trường thi này: “Trường Nam hỗn tạp trường Hà”. Thời Nguyễn, ở Bắc Kỳ có hai trường thi Hương là trường thi Hà Nội và trường thi Nam Định. Thực dân Tây chiếm trường thi Hà Nội nên có những chuyên gia chết trường Hà và phải thi với trường Nam như thế. Theo Nguyễn Tuân, khoa thi năm 1894, trường thi Nam Định có 11 vạn thí sinh, đỗ 60 cử nhân và 200 tú tài. Tú Xương thi đỗ tú tài. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu có số người dự thi đông hơn rất nhiều!

Xem thêm bài viết hay:  Bài văn tả chiếc áo em mặc tới trường hay nhất

Hai câu thực tả cảnh vào trường và gọi tên bằng hai nét rất riêng. Vì là người trong cuộc nên Tú Xương đã làm nổi bật tinh thần của cảnh trường thi như vậy. Dáng người lính “vai chai” trông luộm thuộm, “lép vế”. Các sĩ tử là những người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến ​​từng theo nghiệp nghiên văn. Trong đám lính “chột dạ” sẽ xuất hiện tutu, anh cử, bác sĩ sẽ có mặt trong tương lai. Câu thơ “Quay vai người lính ve chai” là một cảnh hài hước và cay đắng. Đảo ngữ hai từ “liêu xiêu” ở đầu câu thơ tạo ấn tượng nhếch nhác đáng buồn: “vai mang ché”. Lọ mực hay lọ nước trong ngày thi? Đạo giáo (chữ Hán) đang vào cuối mùa “Thần gà rụt rè phải cáo – Văn chương liều đấm ăn xôi” nên trường thi mới có hình ảnh châm biếm “Vứt bỏ vai lính đeo ve chai”. “!

Bức vẽ thứ hai cũng tài tình:

“Ừm, cái miệng của trường la lên”.

Úm có nghĩa là uy hiếp, đe dọa. Cấu trúc của câu thơ đảo ngữ, đặt hai từ tượng thanh “ư ớ” ở đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh của những ông quan: “mồm hét lên”. Trường thi không còn là nơi tôn nghiêm, trật tự, quá lộn xộn, quá ồn ào như cảnh chợ búa nên quan trường mới “ù ù”, “la hét” như vậy. Tú Xương rất chỉnh chu, thể hiện hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Quân tử luộm thuộm, luộm thuộm làm mất đi vẻ nho nhã nho sĩ. Các quan, giám thị, quan tòa cũng không còn phong thái trang nghiêm, uy nghiêm vốn có. Bức biếm họa độc đáo này của Nhị Bình gợi lại buổi hoàng hôn của chế độ phong kiến ​​ở nước ta cuối thế kỷ 19:

“Kéo người lính lên vai vác lọ,

Xem thêm bài viết hay:  2 bài văn mẫu Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối hay nhất - Ngữ văn lớp 11

Quan trường kêu to.

Hai bài văn làm nổi bật bức tranh “Lễ đặt tên khoa bảng Đinh Dậu” với hai bức biếm họa ông Tây và bà mụ. Các tài liệu cũ cho biết, năm đó Toàn quyền Pol Dume và phu nhân là Công sứ Nam Định Lê Noocmang đến dự. Tân khoa, người chăn bông, người kép… phải cúi đầu lạy ông Tây, bà “quét đất”, “lên ghế… lên đít vịt”. Nỗi nhục của hàng vạn sĩ phu Bắc Hà không thể nói quá:

“Lọng che trời, sứ giả đến,

Váy lê quét đất, cô mặc váy.”

Thực dân phương Tây đang đè đầu cưỡi cổ nhân dân ta. Hình ảnh “Chiếc ô che trời” diễn tả cảnh đón tiếp “sứ giả” là thổ phỉ nước ta, một nghi lễ vô cùng long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa đến năm ấy (1897) nơi trường thi là nơi tôn nghiêm, sùng bái phong kiến ​​trọng nam khinh nữ. Vậy mà giờ đây, không chỉ “bà đầm” đến “quét đất” mà còn bày ra giữa ban ngày một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:

“Trên ghế, bà mặc đồ đít vịt

Trong sân, anh ta ngẩng đầu rồng.”

Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: “Không đỗ thì khổ, mà đỗ thì phải lạy trời Tây cả đầm, thật là nhục”.

Nếu không có hai hình ảnh bà đỡ của ông Tây thì bức tranh biếm họa coi như không có gì. Nghệ thuật đối đáp của Tú Xương đã làm tăng sức hấp dẫn cho phong cách hiện thực của Tú Xương. Và nhờ “chiếc lọng” đối với “váy”, “người” đối với “mẹ” nên tiếng cười, tiếng cười, tiếng cười, tiếng cười (nói theo cách nói của Nguyễn Tuân) trong câu thơ của Tú Xương đã kế thừa được tiếng cười dân tộc trong bài thơ. dân ca, tuồng, chèo cổ. Có phải hiểu lọng là một loại pháp trượng (cờ, biển, tán, mông, võng, lọng,…) dùng trong lễ đón tế, lễ vật nhưng lại được mang đến y phục (dơ bẩn), mới thấy nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương. Nỗi đau, nỗi nhục mất nước được để lại một cách cay đắng, lạnh lùng qua đôi câu đối này.

Ngọn nguồn của mạch trữ tình dường như được chắt lọc từ những điều tai nghe mắt thấy từ những bộn bề, bề bộn, bề bộn trong ngoài, thăng trầm của Trường Nam học năm Đinh Dậu:

Xem thêm bài viết hay:  Kể một câu chuyện thể hiện lòng biết ơn của em với Thầy Cô (Dàn ý - 7 mẫu) - Tập làm văn lớp 5

“Nhắn người phương Bắc,

Ngoảnh cổ nhìn đất nước”.

Câu thơ như một lời than thở; trong tiếng gọi chất chứa bao nỗi niềm, xót xa và chua xót. Hiền tài đất Bắc là những người Tử, Công, Nghệ, những người có lòng tự tôn dân tộc,… ở vùng Sơn Nam, ở kinh đô Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ nhân tài. . hoa của đất nước. Ba tiếng “ai đó” chát chít chỉ càng làm cho tiếng than thở, tiếng gọi ấy trở nên thấm thía, cảnh tỉnh hơn. Từ “ngửa cổ” gợi một thái độ, một tâm trạng không thể cam tâm sống tủi nhục mãi trong kiếp nô lệ. Phải biết “ngửa cổ nhìn đất nước”. “Cảnh đồng hương” là cảnh bẽ bàng:

“Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu…

(…) Người hầu, người lột cu li

Giải nghĩa, ghi địa chi

Hết đời lính, trọn đạo làm quan”.

(Ace Châu Á)

Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự kỳ thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là người dự thi, là người chứng kiến… Từ nỗi đau của kẻ thi trượt, ông nghĩ đến nỗi nhục của kẻ sĩ, trí thức, nhân tài miền Bắc. Nỗi đau tủi nhục mất nước như một cơn giận dồn nén cô đọng lại thành tiếng thở dài, tiếng than thở, và cả những giọt nước mắt…

Bài thơ “Vĩnh khoa thi hương” vừa tả cảnh “nhập trường”, vừa tả cảnh “khai hội”, qua đó bộc lộ tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ. Một thực tế đáng buồn, hỗn loạn, lố bịch. Và trữ tình đầy cay đắng và xấu hổ. Thơ, thơ, phong cách thơ Tú Xương là thế!

Nhận xét về bài thơ này, Nguyễn Tuân đã viết: “…Thơ về trường thi của Tú Xương giống như lời nói tao nhã của lớp nho sĩ thời bấy giờ. Hãy lấy bút ra và vẩy mực nhuệ khí lên những cử chỉ, điệu bộ của mũi!

Xem thêm các bài văn mẫu về phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 11:

vinh-khoa-thi-huong.jsp

Các bộ đề lớp 11 khác

Viết một bình luận