Đề bài: Phân tích đoạn văn Thề trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Nhân chuyến du xuân đi dự lễ đào mộ, chung vui với hai em Thuý Vân và Vương Quan, Thuý Kiều đã gặp Kim Trọng bên mộ Đạm Tiên. Dù mới gặp lần đầu nhưng cả hai đều có những cảm nhận về nhau:
“Quốc dân, thiên tài,
Tình yêu ở bên trong như ở bên ngoài.
Ở nhà, Thúy Kiều cứ tơ tưởng, mơ màng thi họa với Đạm Tiên thì được nàng báo tin dữ. Còn Kim Trọng thì cứ ra vào hoài. Chàng tìm thuê trọ gần nhà Thúy Kiều, ngày đêm mong ngóng được gặp nàng. Một ngày đẹp trời, Kim Trọng nhặt được nhành hoa mà Kiều vô tình đánh rơi. Hai người gặp nhau và hẹn ước.
Một hôm cả nhà ra ngoài chơi, Kiều tìm gặp Kim Trọng. Chiều nàng trở về, được tin cả nhà chưa về, Kiều quay lại gặp Kim Trọng. Hai người đã hẹn thề trước trăng sáng. Đoạn trích sau (từ câu 431 đến câu 452) miêu tả khung cảnh đó, một cảnh tượng tình yêu đẹp nhất, lãng mạn nhất mà nhà thơ đã dùng tài hoa của mình để giới thiệu nhân vật Thúy Kiều.
Bốn câu đầu của bài thơ tả cảnh Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng lần thứ hai. Mới đây thôi bác
Căn nhà hiu quạnh hiu quạnh,
Hãy suy nghĩ về cơ hội bạn đã có ngày hôm nay.
Kiều tìm gặp Kim Trọng. Hai người cùng nhau làm thơ, đối đáp, tâm sự với nhau. Kiều lo “bạc mệnh”. Kim Trọng lạc quan, tin vào cái lẽ “nhân định thắng thiên”, hứa hẹn “vàng đá mà liều thân”. Nghe những lời ấy của Kim Trọng, Kiều cảm thấy “lòng xuân phơi phới”. Có lẽ trong tâm trạng đó nên khi về nhà không thấy ai, Kiều đã vội vàng.
Cửa ngoài vội kéo rèm,
Tất nhiên, cảnh đêm trăng phải đẹp, nhưng ý định của Kiều không phải là ngắm trăng. Chỉ cần tưởng tượng đến hình ảnh “xăm xoe, xăm trổ” là bạn đã cảm thấy rạo rực, không muốn lãng phí thời gian để thực hiện mong muốn của mình.
Trong khi đó:
Sinh ra giống như một câu chết
Chiều như dậy dở chiều như điên.
Mệt mỏi vì bao ngày mòn mỏi chờ đợi hay vui mừng vì không được gặp mặt? Thấy tận mắt, nghe bằng tai người và giọng Kiều có khiến hồn Kim Trọng như lên chín tầng mây? Có lẽ có cả hai tâm trạng trong hai câu thơ trên. Hình ảnh một Nho sinh vừa tiễn đưa người mình thầm thương trộm nhớ ẩn hiện trong cụm từ “tựa đề” với khuôn mặt vừa “tỉnh” vừa “đam mê” quả thực khó họa sĩ nào có thể vẽ nên. Trong tâm trạng ấy, Kim Trọng đã nghe “tiếng sen”, rồi thấy “hoa lê”, theo ngôn ngữ ước lệ là tiếng bước chân nhẹ nhàng của Kiều đang đến gần. Khi đó, nhà thơ đã miêu tả Kim Trọng có tâm trạng giống như vua Sở nằm mơ thấy núi thần Vu Giáp trong điển tích của văn học cổ Trung Quốc.
Từ những câu thơ miêu tả như đã phân tích, nhà thơ chuyển sang hình thức đối thoại khi Kiều và Kim giáp mặt nhau. Kiều mở lời:
Cô nói: “Đêm trường xa vắng,
Vì hoa mà phải lặn lội tìm hoa.
Bây giờ nhìn rõ mặt chúng ta,
Ai biết, chẳng phải là nằm mơ sao?”
Lời bộc bạch về quan niệm sống của Kiều: Hãy chủ động trong tình yêu và hãy trân trọng nó trong hiện thực. Quan niệm về tình yêu của Kiều khác với quan niệm truyền thống dành cho phụ nữ ngày xưa: cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Đạo đức Nho giáo đã dạy họ, trong đó có Kiều, là đầy tớ trong gia đình! Sở dĩ Kiều vượt qua được sự áp đặt đạo đức Nho giáo lên người phụ nữ có lẽ vì Kiều đã cảm nhận được tình yêu đích thực của Kim Trọng, đặt niềm tin vào người đàn ông nho nhã này để chủ động “sạch mặt”.
Được lời như mở lòng, Kim Trọng đưa Kiều vào phòng làm việc, vội thêm đèn cho sáng, đốt thêm hương cho tăng thêm hương thơm. Bèn lấy giấy hoa viết lời thề, dùng dao quý cắt tóc chia làm hai phần. Tưởng tượng ra hình ảnh ấy từ mấy câu thơ, người đọc đã thấy một khung cảnh trang nghiêm mà ấm cúng. Cả hai quỳ xuống, nhìn lên bầu trời…
Trăng tròn trên bầu trời,
Đinh Ninh hai miệng một lời song song
Tóc mượt xoắn trái tim,
Trăm năm khắc chữ đồng tận xương tủy.
Cách tạo niềm tin vào tình yêu của đôi trai tài gái sắc đã tạo nên một khung cảnh nên thơ, lãng mạn nhưng không kém phần thiêng liêng. Cả hai đều đặt tâm trí vào lời thề. Họ như một đôi song ca mà lời thề chung thủy và nhân chứng là trời đất, “Trăng vừng”. Bốn câu thơ với những từ láy, éo le, lặp đi lặp lại song hành tạo thành một cặp như đôi trai tài gái sắc Kiều – Kim thề “khắc chữ đồng cam cộng khổ”.
Có lẽ vì nặng lời thề ấy mà sau này, khi chàng quyết định bán mình chuộc cha và em, nhất là trong đêm chàng nương nhờ Thúy Vân để “tiếc máu thay nước” và gắn bó với Kim Trọng , Kiều. luôn nghĩ đến cái chết, nghĩ đến “thịt tan xương nát…, kẻ gây oan trái, để rồi ngất đi sau khi thốt ra lời tạ lỗi đau đớn với Kim Trọng. Tính nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Thúy Kiều như sau. Như vậy, nó là không quên lời thề, nhận lỗi về mình và tạo phúc cho người còn sống.
Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã dựng nên khung cảnh lãng mạn và đề cao nhân vật Thúy Kiều trong đêm thề kết tóc se duyên với Kim Trọng, bằng bút pháp miêu tả và đối thoại. Khung cảnh nhẹ nhàng, đẹp như một bức tranh. Nhân vật Kiều, nhân vật chính, dứt khoát và chân thành, phá vỡ sự thụ động của người thiếu nữ xưa về tình yêu và tình cảm do Nho giáo áp đặt. Tuy nhiên, tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng vẫn trong sáng, đậm đà. Điều đó đã làm tăng sức hấp dẫn và giá trị nhân văn của Truyện Kiều.
Bài giảng: Lời Thề – Cô Trương Khánh Linh (Giáo viên )
Xem thêm các bài văn mẫu phân tích và lập dàn ý tác phẩm lớp 10:
Các bài giải bài tập lớp 10 sách mới:
the-nguyen.jsp
Giải bài tập lớp 10 theo sách mới môn học