Tài liệu hướng dẫn tìm hiểu Nỗi thương mình do Cmm.edu.vn tổng hợp và soạn gồm nội dung gợi ý cách làm chi tiết và một số bài văn mẫu hay tham khảo tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Mục lục
Hướng dẫn tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình
Đề bài: tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
1. tìm hiểu đề
– Yêu cầu: tìm hiểu nội dung đoạn trích Nỗi thương mình.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng : những câu văn, từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu trong văn bản Nỗi thương mình trích Truyện Kiều.
– Phương pháp lập luận chính: tìm hiểu.
2. Hệ thống luận điểm
– Luận điểm 1: Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở thanh lâu.
– Luận điểm 2: Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều khi sống trong tình cảnh trớ trêu ấy.
– Luận điểm 3: Cảnh đẹp, thú vui diễn tả sự đơn chiếc, khổ cực của Kiều.
3. Lập dàn ý chi tiết
a) Mở bài
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều.
+ Nguyễn Du (1766 – 1820) là thi sĩ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam, được tôn xưng là Đại thi hào dân tộc.
+ Truyện Kiều là một tuyệt tác văn học mà Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam, khắc họa rõ nét thân phận nhỏ bé, đáng thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
– Giới thiệu đoạn trích Nỗi thương mình:
+ Đoạn trích “Nỗi thương mình” là một trong những phân đoạn thể hiện sâu sắc nhất cuộc thế khổ cực của nàng Kiều tài hoa bạc phận, trình bày nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều khi ở thanh lâu lần thứ nhất với giọng điệu xót xa, đớn đau.
b) Thân bài
* Luận điểm 1: Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở thanh lâu.
– “bướm, ong, cuộc vui, trận cười” -> Cảnh sinh hoạt xô tình nhân, tấp nập ở chốn thanh lâu.
– “lá gió cành chim“: hình ảnh người kĩ nữ mời chào khách làng chơi
– “Tống Ngọc, Trường Khanh” : những điển tích chỉ khách tới thanh lâu với đủ mọi loại người.
– Tiểu đối, đảo trật tự từ : bướm lả – ong lơi, cuộc vui…- trận cười…, sớm – tối
-> gợi sự bẽ bàng, xấu hổ của Thúy Kiều.
– “biết bao, đầy tháng, suốt đêm” -> Những tính từ chỉ mức độ tuyệt đối
-> Cuộc sống xô tình nhân ở thanh lâu, Kiều phải tiếp khách làng chơi triền miên, chìm đắm ngày qua đêm.
=> Tâm trạng đau xót của Kiều về thân phận của chính mình, bị vùi dập, giày đạp cả thể xác và phẩm giá.
* Luận điểm 2: Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều khi sống trong tình cảnh trớ trêu ấy.
– Không gian: thanh lâu
– Thời gian: tàn canh, ban đêm
-> Thời gian, không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều soi thấu tâm trạng của mình.
– Tâm trạng của Thúy Kiều:
+ Điệp từ “mình” -> Nỗi dằn vặt trong đêm khuya, tỉnh dậy nhìn bốn bể chỉ trơ trọi một mình nên càng thấm thía nỗi đơn chiếc.
+ giật thột: sững sờ, thảng thốt, không tin vào cảnh sống ở thực tế của bản thân mình.
+ Thương mình xót xa
-> Cái giật thột trân quý, làm nên tư cách cao đẹp của Thúy kiều
+ “khi sao” và “giờ sao” : Cặp từ đối lập với nghệ thuật đối giữa hai câu lục/ bát -> Nhấn mạnh sự khác biệt: quá khứ thì êm đềm, hạnh phúc còn hiện tại thì đớn đau, phũ phàng, bị vùi dập
+ Ngữ điệu hỏi: “mặt sao”, “thân sao”
+ Sử dụng thành ngữ chéo: “dày gió dạn sương” (dày dạn gió sương), “bướm chán ong chường” (ong bướm ngán ngẩm) -> nhấn mạnh sự ngỡ ngàng, sững sờ, bộc lộ nỗi đau xót tới cùng cực trong nỗi ê chề.
+ Hình ảnh so sánh “tan tác như hoa giữa đường” -> Thân phận nàng như cánh hoa bị giày xéo, tấm thân nhơ nhớp, khuôn mặt bẽ bàng.
=> Khi sống thật với chính mình, Kiều sững sờ, xót xa, thương thân trách phận và phải chăng đó cũng chính là tiếng nói đòi quyền sống tư nhân của con người trong xã hội phong kiến của Nguyễn Du – con người biết nhận thức và ý thức về hạnh phúc của mình.
* Luận điểm 3: Cảnh đẹp, thú vui diễn tả sự đơn chiếc, khổ cực của Kiều
– “phong, hoa, tuyết, nguyệt” (cảnh đẹp bốn mùa), thú vui “cầm, kì, thi, họa” : Cảnh đẹp, thú vui chốn thanh lâu.
-> Dù sống ở thanh lâu có đủ phong hoa tuyết nguyệt, có đủ những thứ vui tao nhã nhưng thái độ của Kiều là sự vô cảm, thờ ơ, hờ hững. Đối với Thúy Kiều, cảnh vật là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri kỉ, tri kỉ, nàng thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh.
=> Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho thân phận của mình khi sống ở nơi thanh lâu “dặt dìu”.
“Vui là vui gượng gập kẻo là,
người nào tri kỉ đó mặn mà với người nào?”
+ Điệp từ vui, người nào… và thắc mắc tu từ là tiếng kêu tới xé lòng của con người tài hoa bạc phận.
-> Kiều luôn quyết tâm tách mình ra khỏi cuộc sống chốn thanh lâu. Đó là sự phản kháng, chống đối vì nàng muốn đòi quyền sống, sống trong sạch – khát khao hướng thiện khi đã ý thức được trị giá phẩm giá của Kiều.
=> Nguyễn Du đề cao trị giá nhân văn, thông cảm sâu sắc với số phận của Kiều và lên án xã hội gay gắt.
* Đặc sắc nghệ thuật
– phương thức độc thoại nội tâm tinh tế, sâu sắc
– phối hợp khéo léo lời kể của tác giả và lời của nhân vật
– Vận dụng sáng tạo những thành ngữ, điển tích, điển cố
– văn pháp tương phản đối lập giữa quá khứ và hiện tại
c) Kết bài
– Khái quát lại trị giá nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
– Cảm nhận của em về đoạn trích.
>>> Tham khảo thêm: Hướng dẫn soạn bài Nỗi thương mình
4. Sơ đồ tư duy tìm hiểu Nỗi thương mình
Một số bài văn hay tuyển chọn lựa tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình
tìm hiểu Nỗi thương mình mẫu số 1:
Đoạn trích Nỗi thương mình là tâm trạng xót xa, ê chề của nàng Kiều khi rơi vào hoàn cảnh ngang trái đầy nhục nhã tại lầu Ngưng Bích và khởi đầu những tháng ngày trở thành kỹ nữ, chứng kiến cảnh mua vui trụy lạc, mà rớt nước mắt xót thương “đớn đau thay cho phận nữ giới/Lời rằng bạc phận cũng là lời chung”.
Đoạn trích nằm từ câu 1229 tới câu 1248, trong phần xiêu dạt của Truyện Kiều. khởi đầu khi Mã Giám Sinh đưa Kiều về tới thanh lâu của Tú Bà, Kiều biết mình bị lừa, để tránh thoát số kiếp kỹ nữ mua vui, Kiều bèn nhắm mắt nhắm mũi định quyên sinh nhưng không chết, lại được Đạm Tiêm báo mộng nàng vẫn chưa thoát khỏi sổ đoạn trường. Đành lòng Kiều nhẫn nhục ra ở tạm lầu Ngưng Bích, rồi mắc mưu của Sở Khanh, bỏ trốn không thành, bị Tú Bà bắt về đánh đập man di và lấy cớ ép Kiều tiếp khách.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
dặt dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu là cảnh chốn thanh lâu ăn chơi hoang lạc, hoàn toàn xa lạ, ngoài sức tưởng tượng của nàng Kiều. Với “bướm lả, ong lơi”, đầy dung tục tầm thường, hành động suồng sã, trêu ghẹo của khách làng chơi cùng với những bóng hồng tha thướt mời gọi của kỹ nữ, như ong vờn bướm đầy ngả ngớn. Không gian ngập tràn trong ánh đèn nến đỏ đỏ hồng hồng, cùng những “trận cười suốt đêm”, cùng với hương rượu nồng đượm từ “cuộc say đầy tháng”, không phân biệt ngày đêm, ồn ào, buông thả và náo nhiệt. Hình ảnh nam nữ vốn chẳng quen biết “dặt dìu” tựa sát vào nhau như “lá gió, cành chim”, rồi cảnh kỹ nữ tiếp khách suốt ngày đêm, chẳng phân biệt người nào ra người nào, công việc cứ tuần hoàn không có điểm ngừng, tới nỗi họ quên mất cả bản thân mình là người nào. Nguyễn Du đã rất tài tình khi đưa hai nhân vật trong điển tích văn học là Trường Khanh, Tống Ngọc, vốn nổi danh với tính phong lưu, thích tầm hoa vấn liễu để giúp người đọc thấy được Kiều tiếp những đối tượng thường là phong lưu tài tử. Chỉ bằng vài câu thơ ngắn gọn, súc tích, tác giả đã khắc họa rõ nét cuộc sống nhơ nhớp, trụy lạc ngập tràn sắc dục và ê chề nơi thanh lâu, nơi phụ nữ được xem là thứ đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang lạc tầm thường của những kẻ lắm tiền nhiều của. Cũng chính trong đoạn thơ này, dưới tầm mắt quan sát thấu đáo của Kiều, cho thấy nàng có ý thức rất cao về phẩm giá cũng như thân phận của mình.
Kiều vốn được Nguyễn Du xây dựng như một hình mẫu người phụ nữ lý tưởng tài sắc vẹn toàn, nhưng xót xa thay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, một con người thanh cao trong trẻo tới vậy, số mệnh lại đẩy đưa vào nơi nhơ nhấp, tầm thường nhất. Kiều vùng vẫy, chống lại số phận, không chấp nhận làm một kỹ nữ dơ bẩn mặc người chơi đùa, ở nàng hiện lên cái đức tính cao đẹp của loài hoa sen tinh khiết “sắp bùn mà chẳng tanh hôi mùi bùn”. Nhưng Kiều bất lực trước hoàn cảnh ngang trái của mình, Kiều buộc phải chấp nhận sự thực, tự khóc thương cho bản thân.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
giật thột lại thấy thương mình xót xa”
Kiều đã cố quên đi nỗi đớn đau tủi nhục, trong men rượu, nhưng có ích gì khi, canh tan rượu tàn, còn lại tấm thân rời rã, tới Kiều cũng phải “giật thột” mà tự “thương mình xót xa”. Nhịp thơ trong câu lục, là nhịp 3/3 chậm rãi, nhịp nhàng, diễn tả cuộc sống ngán ngẩm, đằng đẵng vô tận, tới câu bát thì nhịp thơ 2/2/2/2 nhanh hơn, Kiều sững sờ tỉnh lại, nhận lấy nỗi đớn đau tận tâm tình, như vặn xoắn lấy tâm hồn.
Những câu thơ tiếp là dòng hồi ức đầy xót xa, chua chát của Kiều khi so sánh cuộc sống nhung gấm, thanh cao trước đây cùng với thực cảnh tủi nhục, nhơ nhớp chốn thanh lâu, ong bướm lơi lả.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nhớ khi xưa kia khi còn là tiểu thư đài những, cầm kỳ thi họa môn nào cũng tinh thông, lại được sống trong “phong gấm rủ là”, là viên minh châu, được cha mẹ nâng niu, chiều chuộng, thân ngọc ngà chẳng nhiễm một hạt bụi trần. Nhưng nay hiện thực thảm khốc, Kiều tự ví tấm thân “tan tác như hoa giữa đường”, một đóa Mẫu đơn xinh đẹp nay bị chốn thanh lâu vùi dập không tiếc thương. Ngày trước, nàng nào phải lộ mặt tiếp xúc với nam tử, hay người lạ bao giờ, còn nay thì “Mặt sao dày gió dạn sương”, đã chẳng còn biết xấu hổ, hay e lệ phép tắc, lễ nghĩa, bởi trong chốn phong nguyệt này những thứ đó thật nực cười. Chính Kiều cũng cảm thấy tấm thân mình chẳng còn trong sạch, vốn đã “bướm chán ong chường”, rẻ mạt tới thế. Để thấy được Kiều đã có một cuộc sống đày đọa, vừa ê chề nhục nhã về thể xác, vừa tủi nhục trong tâm hồn, buồn xót cho một số phận tài hoa nhưng mệnh đời bạc tình quá. Việc Nguyễn Du sử dụng những thành ngữ lồng ghép, đan chéo vào nhau càng tăng thêm sức biểu cảm, từng câu từng chữ như ghim vào lòng người đọc, thấm đượm nỗi xót thương cho số phận của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.”
Nhưng dù xã hội có cố vùi dập nàng xuống lớp bùn tanh hôi, dù tấm thân nàng đã vướng bụi đời, nhưng tâm hồn hồn nàng vẫn thanh khiết, giữ vững cốt cách của loài sen trắng. Kiều thờ ơ với mọi cuộc khoái lạc “mưa Sở mây Tần”, nàng chẳng lấy gì làm vui thú, có gì để vui đây? Khi những khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, cho sắp gũi thân tình, nhưng thật giả dối và kinh tởm quá. Lòng Kiều như chết lặng, Kiều không phản kháng, cũng không còn muốn phản kháng, bởi đớn đau và tủi đã cướp đi hồn nàng, Kiều chỉ đang tồn tại, tồn tại giữa chốn thanh lâu phồn hoa nhất, cũng thấp kém nhất. Cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt đẹp đẽ có đủ cả, nhưng cũng không thể che lấp đi sự nhơ nhớp, trụy lạc của chốn phong trần phóng túng.
Hỏi chăng trong lòng vốn đã đau xót, buồn tủi thì cảnh có đẹp tuyệt trần đi chăng nữa, thì người cũng có vui được không? Thế Nguyễn Du mới có câu thơ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”. Tâm trạng u uất của Kiều nhường nhịn như lan tràn sang cả cảnh sắc xung quanh, nơi đây cũng nào thiếu những thú vui cầm, kỳ, thi, họa, cũng thanh tao thanh lịch một cách đầy mỉa mai, khi chốn dung tục mà cũng “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”. Chính vì vậy lòng Kiều càng không vui nổi, có chăng là cái cười gượng gập gạo “Vui là vui gượng gập kẻo là”. Cười ở đây là nụ cười chua chát, mặn đắng bờ môi, chắc rằng lòng Kiều đang nhỏ lệ, có câu buồn quá hóa cười, cười vì số phận trêu ngươi, cười vì chán chê cái thân phận phụ nữ đầy ngang trái, trắc trở. Nỗi khổ cực của Kiều qua đoạn thơ này được Nguyễn Du thể hiện bằng văn pháp tả cảnh ngụ tình, càng thêm thấm thía, sâu sắc hơn trong từng câu chữ. Câu thơ cuối như một lời hỏi bâng quơ “người nào tri kỉ đó mặn mà với người nào?”, Kiều chẳng mong câu trả lời, bởi trong chốn phong trần này, sẽ chẳng người nào thấu hiểu cho nỗi đau này của nàng.
Đoạn trích là niềm thương cảm cho số phận của nàng Kiều, người con gái tài sắc vẹn toàn mà bạc phận. Bao trùm không khí là sự buồn tủi, xót xa nhưng không bi lụy, yếu đuối. Những dòng thơ của Nguyễn Du đều thể hiện một tấm lòng thương yêu, đồng cảm, và đề cao phẩm cách đáng quý của nàng Kiều, trong trắng, thanh khiết như một đóa hoa sen giữ chốn bùn lầy nhơ nhớp của xã hội phong kiến bấy giờ. Nguyễn Du thông từ đó tố cáo tội ác, sự rếch rác của một xã hội mục nát đã tàn phá, vùi dập những con người khốn khổ, đáng thương vào tận đáy của xã hội, trong đớn đau tủi nhục, đặc biệt là những người phụ nữ chân yếu tay mềm, không thể phản kháng, không nổi tiếng nói.
Xem thêm: Soạn bài Nỗi thương mình (Truyện Kiều)
tìm hiểu Nỗi thương mình mẫu số 2:
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu khổ cực lên một kiếp người
Sau khi Thúy Kiều đánh tiếng sẽ bán mình để chuộc cha ra khỏi chốn ngục tù, Mã Giám Sinh nhờ mối lái dẫn tới, giả mạo cưới Kiều làm vợ lẽ. nhưng thực ra y mua nàng về cho nhà chứa của Tú Bà. Khi biết mình bị lừa, Thúy Kiều quyết liệt chống lại mưu mô tàn ác của chúng. Nàng rút dao định tự sát, nhưng không chết. Trong cơn mê, Thúy Kiều thấy hồn Đạm Tiên hiện về báo cho biết nàng chưa thoát được số đoạn trường nên đành phải nghe lời dỗ ngon dỗ ngọt của Tú Bà ra tạm ở lầu Ngưng Bích. Sở Khanh, tên tay sai của Tú Bà đã lập mưu rủ nàng đi trốn. Kiều nhẹ dạ nghe theo, bị Tú Bà bắt về đánh đập rất man di và buộc nàng phải tiếp khách.
Đoạn trích Nỗi thương mình từ câu 1229 tới câu 1248 của Truyện Kiều trình bày tâm trạng đớn đau, tủi nhục, nỗi đơn chiếc, thương thân trách phận và ý thức về thân phận xấu số của Thúy Kiều ở chốn thanh lâu.
Điểm đặc thù của đoạn trích này là tác giả viết về tình cảnh, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị buộc làm kĩ nữ tiếp khách làng chơi. Nguyễn Du phải đối diện với một thực tế phũ phàng là xã hội vạn ác đã đồn đẩy nhân vật mà ông trân trọng, yêu mến vào chốn thanh lâu. Làm thế nào để vẫn phản ánh được sự thực mà không hạ thấp nhân vật. vẫn thể hiện được thái độ thông cảm của mình và nói lên được sự khổ cực, thương thân xót phận của nhân vật. Nguyễn Du phát huy mặt mạnh của văn pháp ước lệ cùng nghệ thuật sử dụng ngôn từ chọn lựa lọc vừa thích hợp vừa chuẩn xác để khắc phục vấn đề nan giải này. Nguyễn Du đã trình bày thật sống động bức tranh sinh hoạt đặc trưng ở chốn thanh lâu bằng văn pháp ước lệ tượng trưng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
dặt dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Những ẩn dụ như bướm lả, ong lơi, lá gió, cành chim, hình ảnh cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm và cả điển tích văn học về Tống Ngọc, Trường Khanh, hai vị khách phong lưu nổi tiếng đã khắc họa được cảnh sống xô tình nhân, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn thanh lâu. Giữa cái không khí ồn ào, náo nhiệt, lơi lả, dặt dìu, sớm đưa, tối tì ra ấy, vượt trội lên hình ảnh một nàng Kiều đơn chiếc, buồn tủi.
những phương thức đối xứng trong câu như bướm lả/ong lơi, lá gió/cành chim được Nguyễn Du khai thác triệt để nhằm tô đậm nỗi thương thân, xót phận của Thúy Kiều và gây cảm giác đớn đau. Xót xa thực sự cho người đọc.
Bốn câu thơ đầu vừa là bức tranh sinh hoạt nhơ nhớp chốn thanh lâu vừa ẩn chứa tiếng thở dài não ruột của người con gái tài sắc buộc phải làm kĩ nữ. Tác giả xót thương Thúy Kiều rơi vào chốn bùn nhơ, nơi phẩm giá bị hủy hoại, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh đó, Thúy Kiều đã ý thức rất rõ về phẩm giá cao quý của mình.
Thúy Kiều là một người con gái được Nguyễn Du xây dựng trở thành hình mẫu lí tưởng của cái đẹp, cái thiện. Khi lâm vào tình cảnh ô nhục mà nàng chưa từng nghĩ tới. Thúy Kiều đã cố vùng vẫy để được giải thoát, nhưng càng vùng vẫy lại càng bế tắc. Nỗi đau “trần thế’’ đối với một người Mai cốt cách, tuyết ý thức như Thúy Kiều nhường nhịn như nhân lên gấp bội: vì hơn người nào hết, nàng không bao giờ chấp nhận cuộc sống sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh. do vậy, khi thể hiện tâm trạng Thúy Kiều ở thanh lâu, Nguyễn Du đã dồn hết xúc cảm xót thương vào ngòi bút.
thi sĩ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi nhục tới ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
giật thột, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm đắng cay, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, xiêu dạt nơi đất khách.
tới câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật thột/mình lại/thương mình/xót xa. Hai chữ “giật thột” phối hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ “mình” mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lần trong một câu thơ có nhịp độ thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.
Thúy Kiều giật thột sợ hãi trước sự thay đổi gớm ghê của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. nhịp độ, âm hưởng và phép điệp từ phối hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chuẩn xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, người nào cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là xúc cảm bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh, lao đi trên tuyến đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt nhắm mũi đưa chân, để xem hồng quân xoay vần tới đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và ti tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh “chân trời góc biển trơ trẽn”, không nơi nương tựa, không người yên ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ ngừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy tới trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây tán thành, đồng điệu.
Thúy Kiều đắng cay nghĩ tới sự tương phản gớm ghê giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và tiếc thương thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đớn đau, tủi nhục ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. quá khứ tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc tới liên tục trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được sử dụng trong phương thức đối vừa được sử dụng ở phương thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao phối hợp với những thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đớn đau ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những thắc mắc day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là những thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.
Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn thanh lâu:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi khổ cực quá mức làm cho lạnh giá.
Ở thanh lâu cũng có đủ những thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
Vui là vui gượng gập kẻo là,
người nào tri kỉ đó mặn mà với người nào?
Dưới ngòi bút trình bày của Nguyễn Du, không chỉ có quá khứ đối lập với hiện tại mà bản thân cuộc sống hiện tại cũng chứa đựng sự đối lập. cuộc thế kĩ nữ nhìn kiểu dáng tưởng thanh cao, tao nhã: Đòi phen nét vẽ câu thơ, cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa; Đòi phen gió tựa hoa kề, nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu, nhưng thật là mỉa mai khi sự nhơ nhớp rếch rác được che đậy bằng vẻ ngoài thơ mộng và hào nhoáng.
Sự đối lập ấy Kiều đã nhìn thấy bằng trái tim nhạy cảm của mình. Những từ gượng gập, thờ ơ, ngơ ngẩn thể hiện tâm trạng chẳng mặn mà, thậm chí bẽ bàng của Kiều trước thực tế. Một người vốn trung thực như Kiều mà lại phải vui là vui gượng gập để chiều khách làng chơi thì nỗi tủi, nỗi sầu càng sâu sắc, thấm thía hơn. Tưởng tuồng như nỗi sầu từ lòng người lan tỏa sang cả cảnh vật:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Bằng sự thông cảm thực sự và bằng tài năng kì diệu. Nguyễn Du đã viết lên hai câu thơ hay nhất về mối liên hệ tương đồng giữa ngoại cảnh và tâm trạng, giữa cảnh và tình trong văn học Việt Nam.
Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sầu sắc về quá trình tự ý thức của con người tư nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường được giáo dục theo ý thức yên phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi nhân vật giật thột mình lại thương mình xót xa thì điều này đã bao hàm ý nghĩa “cách mệnh”. Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, tư cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân, xót phận là một hiện tượng khá phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn, sâu sắc hơn so với những tác giá khác. Sự thương mình chính là nền tảng của lòng thương người. Văn học dân gian có câu: Thương người như thể thương thân là vì vậy. Không thể có tình thương sâu sắc, chân chính dành cho người khác nếu như không có ý thức về bản thân, không biết thương chính bản thân mình.
Đoạn trích Nỗi thương mình cho thấy phẩm giá cao quý, trong trắng của Thúy Kiều. Nguyễn Du đã không né tránh thực tế nghiệt ngã, và đã đề cao tư cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng việc thể hiện thành công nỗi buồn thương, day dứt, ngán ngẩm của nàng giữa chốn bùn nhơ.
Đoạn thơ đầy chất bi thương nhưng lại không hề yếu đuối. Từ bên trong nó toát lên ánh sáng của phẩm chất cao quý và chính cái bi thương ấy lại là lời tố cáo mãnh liệt tội ác của xã hội bất nhân đã chồng chất bao nhiêu khổ cực lên một kiếp người. Người đọc xót xa căm giận cái xã hội vạn ác và càng cảm phục, yêu thương khôn xiết người con gái tài hoa mà xấu số – Thúy Kiều.
tìm hiểu Nỗi thương mình mẫu số 3:
“Nỗi thương mình” (Truyện Kiều) là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt ý thức nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 tới câu 1248, cho thấy tâm trạng đớn đau, tủi nhục, nỗi đơn chiếc, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận xấu số của Thúy Kiều ở chốn thanh lâu.
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm xiêu dạt, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lừa lọc nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đớn đau nhất có nhẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán tới thanh lâu. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc thế Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành.
tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du
Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ – gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn thanh lâu là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy xấu số khi nghe những lời độc thoại nội tâm đầy đớn đau : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời khắc mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ tới thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ đắng cay khi nàng sánh với quá khứ.
Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi nhục tới ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn thanh lâu của mụ Tú Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
dặt dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô tình nhân, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn thanh lâu. Nguyễn Du đã trình bày thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn thanh lâu bằng văn pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn thanh lâu ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nở rộ của chốn thanh lâu, nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ: bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và những điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh thanh lâu tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày Kiều phải làm thuê việc nhơ nhuốc, tiếp đủ những loại khách tới mua vui.
Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi xấu số và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. văn pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. từ đó ta thấy được thái độ trân trọng, thông cảm của tác giả đối với nhân vật.
Ông đã tái tạo cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được trình bày trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ tiếng nói ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi ức kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi ức mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới vượt trội được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng thông cảm, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở thanh lâu có rất nhiều kĩ nữ, họ có thể mặc nhiên coi việc làm của mình rất đỗi thông thường, trớ trêu thay Kiều lại có một phẩm giá quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
giật thột mình lại thương mình xót xa”
Ở nơi thanh lâu đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật thột” phối hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng sững sờ đau xót trước thực tế phũ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đớn đau cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình.
giật thột không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật thột từ xúc cảm bên trong mà nếu như không có thì Kiều cũng giống như tất cả những kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật thột vì nhìn thấy sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn thanh lâu, sự đơn chiếc lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, tư cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức tư nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải tới người đọc.
Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tế tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”
Một cô gái khuê những, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang rất đỗi. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng tới mức chính Kiều cũng phải sững sờ, sửng sốt. Phép đối lập như một giải pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm trị giá biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời khắc: “Khi sao/giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đớn đau như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.
Quá khứ hiện về đối lập với thực tế một cách khốc liệt, Kiều hồi ức lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì tức tốc thực tế phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm vượt trội sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tế, giữa tư nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách sử dụng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, giày đạp mà Kiều phải gánh chịu. những thắc mắc tu từ ở đây được Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đớn đau, ê chề của Kiều trước thực tế phũ phàng, tàn nhẫn.
Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả”:
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Sống trong cảnh thanh lâu suốt ngày phải mua vui cho người khác hành tội bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày người nào cũng sẽ thấy ngán ngẩm muốn bỏ bễ tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhiều) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi đơn chiếc của nàng. Từ ”xuân” ở đây ý chỉ niềm vui được lợi hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và đơn chiếc của cuộc thế người kĩ nữ mua vui. Từ ”mặc” ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng gập kẻo là
người nào tri kỉ đó, mặn mà với người nào.”
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết – nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa tụ họp vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của thanh lâu và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nở rộ, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo tới mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản tính nhơ nhớp, rếch rác bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì vậy đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người kiểu dáng vui gượng gập, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.
Cảnh không thể vui vì lòng người trĩu nặng nỗi tê tái… Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về phẩm giá một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau túc trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Bằng sự thông cảm lạ thường, và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm trạng, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi tới một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, xúc cảm của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.
“Vui là vui gượng gập kẻo là
người nào tri kỉ đó mặn mà với người nào?”
Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng gập” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự tranh chấp, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lơi lả… là điều cùng bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc thế mình lại thảm kịch như thế. Giữa chốn thanh lâu mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ tới rồi đi, cái còn lại sau rốt với Kiều chỉ là sự rời rã, đớn đau cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có người nào là tri kỉ, có người nào để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn trông ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa tiếng nói nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc phối hợp thắc mắc tu từ đầy sót xa đắng cay cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.
Đoạn trích thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của Thúy Kiều. Thể hiện tập trung tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước thảm kịch của Kiều, khẳng định tư cách đẹp đẽ của nàng và khẳng định sự ý thức về phẩm giá và sự ý thức tư nhân. Thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện được nghệ thuật trình bày nội tâm nhân vật với tiếng nói nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả – nhân vật – người đọc.
Tham khảo:
tìm hiểu trị giá nhân đạo trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
tìm hiểu nghệ thuật trình bày nhân vật trong Truyện Kiều
tìm hiểu Nỗi thương mình mẫu số 4:
Đại thi hào Nguyễn Du viết nên tuyệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc phận” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi người nào nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa.
“Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đớn đau và nước mắt của Thúy Kiều khi cuộc thế bị đẩy vào chốn thanh lâu bị đè ép dưới tay của mụ Tú Bà kinh tởm. cuộc thế nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều khởi đầu từ đây. Nguyễn Du như xé lòng khi kể từng trang viết về cuộc thế Thúy Kiều, câu mở đầu như vén bức màn u tối mà Kiều đang phải sống những tháng ngày ô nhục trong đó:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
dặt dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Bằng cách sử dụng những hình ảnh ước lệ như “bướm lả ong lơi”, “cuộc vui”, “trận cười suốt đêm… đã hiện lên trước mắt người đọc cảnh ong bướm nở rộ chốn thanh lâu kia. Nơi mà con người đem ra giống hàng hóa để trao đổi kinh doanh làm thú vui xa hoa, cảnh làng chơi với những nhân vật Tống Ngọc và Trường Khanh thấy đậm nét hơn cuộc sống nơi đây. Người con gái nhỏ bé có số phận gắn với nơi này luôn ấp ủ trong mình một nỗi xót mà người đời không hay:
Khi tỉnh rượu lúc canh tàn
giật thột, mình lại thương mình xót xa
Nàng lấy rượu để giải sầu, để tâm hồn nàng được thoát khỏi nơi đây. Những lúc rượu tỉnh vào đêm khuya vắng nàng mới “giật thột” rồi tự “thương mình xót xa”. Phép điệp từ “mình” của Nguyễn Du đã gieo vào lòng người một nỗi xót xa, thương thay cho số phận người con gái long đong, bạc tình phải nương nhờ chốn phong trần.
Những câu thơ tiếp theo là những năm tháng khi thể xác nàng Kiều phải chịu nỗi dơ bẩn, vô vọng:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bất thân
Số phận ấy không người nào thương thay nên Thúy Kiều đành tự ôm nỗi lòng thương lấy chính mình mà chỉ biết sầu đau. Nguyễn Du lấy hình ảnh “hoa tàn” để nói lên cuộc thế bị giày đạp, vùi dập của người con gái mỏng manh. Người con gái đẹp như bông hoa đang nở rộ phơi sắc vậy mà cánh hoa bị dẫm đạp héo úa không chút thương xót. Qua đây tác giả cũng đã phê phán được xã hội bất công, xã hội còn tồn tại quá nhiều thành kiến, chỉ toàn những cái xấu xa không cho người khác một đường để sống.
Thúy Kiều vô vọng tới mức tưởng mình đã chết lặng:
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngâm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa
Giữa chốn thanh lâu nàng lấy thơ, lấy họa, lấy đàn làm bạn để không cảm thấy đơn chiếc, lạc lõng. Nhưng dù vậy thì lòng nàng cũng không khỏi u sầu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” không gian của nỗi buồn vẫn bao phủ lấy nàng khiến nỗi sầu gieo càng sầu thêm.
Nguyễn Du viết nàng Kiều tuy đã quyết tâm “gượng gập” sống mà cũng như đã chết, đây thực sự là đoạn khiếp sợ nói lên cuộc thế cay nghiệt:
Vui là vui gượng gập kẻo là
người nào tri kỉ đó mặn mà với người nào
tương tự chỉ với mấy câu thơ nhưng Nguyễn Du như nén hết xúc cảm trong đó để xót xa cùng thân phận cuộc thế của nàng Kiều bạc phận. Đây là nhân vật đã lấy đi bao nước mắt của tác giả cũng như người đọc.
Vẫn chủ đề thân thuộc vẫn là những số phận nhỏ bé của người phụ nữ nhưng tới Nguyễn Du ông đã sử dụng cây bút của mình viết nên vần thơ tựa như lời bộc bạch thấm thía, sâu sắc vô cùng. nhường nhịn như hình ảnh Thúy Kiều hiện thân cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được đặc tả tinh tế nhất. Nỗi thương mình là nền tảng của lòng thương người, ông tự thương lấy chính cuộc thế ông và đồng cảm với nàng Kiều sống giữa chốn bụi trần đầy rẫy những lưỡi dao cắt xé lòng.
Đoạn trích “Nỗi thương mình” mang đậm chất bi thương vừa là chuỗi hành trình kể lại từng mảnh đời của Thúy Kiều vừa là lên án được xã hội vạn ác đã chồng chất bao nỗi khổ đau lên một kiếp người.
tìm hiểu Nỗi thương mình mẫu số 5:
giật thột mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mộng Liên Đường chủ sở hữu đã khái quát về thân thế Thuý Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi thanh lâu, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thuý Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi khổ cực tê tái nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào thanh lâu, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. Điều đó góp phần làm nên trị giá nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.
Vận mệnh và tính cách có màu sắc thảm kịch của nàng Kiều quán xuyến toàn bộ nội dung tác phẩm. Nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài đàn tuyệt diệu, tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng không chống lại được hoàn cảnh. Nàng rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải tiếp khách làng chơi:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm
dặt dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Nguyễn Du đã sử dụng văn pháp ước lệ phối hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều, từ đó thể hiện thái độ trân trọng đầy thông cảm đối với nhân vật của mình.
Thân phận nàng Kiều bị cuộc sống thanh lâu cuốn đi, đọa đầy tưởng bị nhấn chìm trong chốn bùn nhơ không chứa đầu lên được. Nhưng nỗi đớn đau của nàng, tâm sự thương mình của nàng, ý thức về phẩm giá của nàng khiến ta chỉ càng thương nàng hơn, càng trân trọng nàng hơn. Hãy lắng tai những tâm sự của nàng sau những “cuộc vui”, những “trận cười”:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
giật thột mình lại thương mình xót xa.
Vẫn không gian thanh lâu của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh” – đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quý giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “giật thột mình lại thương mình xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “giật thột” như một sự sững sờ, thảng thốt đớn đau. “giật thột” vì thấy tháng tởm cho cảnh sống truỵ lạc chốn thanh lâu. “giật thột” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê những nết na sống trong cảnh “phong gấm rủ là” nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”. “giật thột” hay “rùng mình”, bởi tấm thân “gìn vàng giữ ngọc” cho Kim Trọng giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì vậy mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía đơn chiếc xót xa. Bốn thắc mắc liên tục là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Trong bốn câu chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm còn ba câu liên tục nói về thực tế phũ phàng. Điều đó gây ấn tượng về việc hiện tại đang đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những thắc mắc manh sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót tới cùng cực trong nỗi đọa đày ê chề. Lời thơ vừa tức tưởi vừa người nào oán, vừa xa xót vừa nghẹn ngào.
Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người tư nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo ý thức cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “giật thột mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và tư cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị huỷ diệt. Giữa chốn thanh lâu nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sánh về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.
Đoạn thơ vừa thể hiện được trị giá hiện thực vừa có chiều sâu của tư tưởng nhân đạo, một chiều sâu có thiên hướng vượt thời đại. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm vì sao Truyện Kiều luôn đồng hành cùng với những vui buồn người Việt qua mưa nắng thời gian.
—————-
Hy vọng những gợi ý chi tiết cách làm và một số bài văn mẫu do Đọc tài liệu tổng hợp và soạn trên đây đã giúp những em nắm được cách làm bài tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Từ những gợi ý trên em hãy tự viết thành bài văn của riêng mình nhé. Ngoài ra, Cmm.edu.vn còn thường xuyên cập nhật nhiều bài văn mẫu 10 hay phục vụ việc học văn của những em. Chúc những em luôn học tốt và đạt kết quả cao!
Hướng dẫn tìm hiểu Nỗi thương mình, lập dàn ý chi tiết cùng tuyển chọn lựa những bài văn hay tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (thptsoctrang.edu.vn)
Bạn thấy bài viết tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du bên dưới để Trường THPT Nguyễn Quán Nho có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: thptnguyenquannho.edu.vn của Trường THPT Nguyễn Quán Nho
Nhớ để nguồn bài viết này: tìm hiểu đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều – Nguyễn Du của website thptnguyenquannho.edu.vn
Chuyên mục: Văn học