Bài giảng: Thầy Đỗ – Cô Phạm Lan Anh (Thầy )
Đề bài: Phân tích hình tượng ông Đồ trong bài thơ “Cố nhân” của Vũ Đình Liên.
Bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, khi tư tưởng văn hóa phương Tây có cơ hội du nhập vào Việt Nam, văn hóa Hán Việt và Nho giáo dần mất đi vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa dân tộc. Nho sĩ, từ chỗ là trung tâm của đời sống văn hóa, được cả xã hội tôn vinh, ngợi ca, đã dần mai một, bơ vơ trong thời hiện đại, dần chìm vào quên lãng. Ý thức được điều đó, Vũ Đình Liên đã viết bài thơ “Cố nhân” bộc bạch tâm tư, chia sẻ nỗi niềm, bày tỏ niềm cảm thông chân thành đối với một tầng lớp nho sĩ thời bấy giờ và bày tỏ niềm tiếc thương. trong cảnh cũ của người xưa về giá trị văn hóa đẹp đẽ của một thời oanh liệt.
Có thể nói, bài thơ như một câu chuyện về một cuộc đời, một số phận hẩm hiu đầy nghịch cảnh. Đó là cuộc sống của một người làm nghề viết câu đối mỗi dịp Tết đến xuân về. Cuộc đời ấy được chia thành hai thời kỳ gắn liền với hai thời kỳ hưng thịnh và suy tàn của văn hóa Hán.
Trước hết là thời điểm ông kiêu hãnh và vàng son trên ngai vàng:
Mỗi năm hoa đào nở
Đó là đồ chơi cũ của mình
Giấy trình bày mực đỏ
Bên trong một con phố đông đúc hơn.
“Từng…thấy” có nghĩa là hàng năm, cứ mỗi độ hoa đào nở – báo hiệu thời khắc giao hội mùa xuân đã về, ông lão với cây bút nghiêng và tờ giấy đỏ lại xuất hiện. Và cứ thế, đồ cùng hoa đào – đất giả của mùa xuân đã trở thành một trong những tín hiệu không thể thiếu trong mỗi dịp Tết đến xuân về. Lúc bấy giờ, mọi người phấn khởi vui mừng xếp hàng dài trên phố, người người tấp nập chờ xem ông cụ viết:
Có bao nhiêu người thuê nhà đã viết
Tấm tắc khen người dùng
“Hoa vẽ đường
Như rồng phượng múa.
Và ông xuất hiện như một nghệ sĩ tài năng trong nghệ thuật thư pháp. Những nét chữ vuông vức tươi sáng lần lượt được in trên giấy đỏ như một kiệt tác “rồng bay phượng múa”. Dù không còn một nơi trang trọng như các bậc tiền bối năm xưa, vì phải làm công việc “bán chữ” nhưng ông vẫn phần nào được an ủi vì ít nhiều đã làm đẹp cho đời, mang lại không khí Tết. niềm vui cho mọi người xung quanh.
Tuy nhiên, thời hoàng kim đó của cụ ông dần kết thúc, cụ ông để lại cảnh vắng khách rồi mai một:
Nhưng năm nào cũng vắng
Người thuê viết ở đâu?
Cánh hoa giấy đỏ buồn
Nghiên cứu mực còn lại trong đau buồn.
Từ “nhưng” đặt ở đầu khổ thơ như một cánh cửa của hai thời kỳ trước và sau im lìm và suy tàn, vàng – vọt. Hoa đào vẫn nở, phố vẫn tấp nập người qua lại và ông cụ vẫn ngồi đó, nhưng “người thuê viết ở đâu?”. Mọi người thờ ơ, lạnh nhạt và không còn quan tâm đến ông lão. Câu hỏi tu từ được trồng giữa khổ thơ thể hiện sự tiếc nuối khôn nguôi. Vì vậy, ông lão hiện lên thật khổ sở và đáng thương: “giấy đỏ buồn chẳng sáng”, “mực lem nghiên sầu” ngồi nhìn “lá vàng rơi” và “mưa bụi bay” đầy lối, ngao ngán, vô vọng. . Nghệ thuật nhân hóa làm cho mực và giấy vốn vô tri vô giác giờ cũng thấm đẫm tâm trạng của con người: giấy không còn đỏ, mực khô và đọng lại. Lời thơ vang lên và ngân lên trong lòng người đọc một nỗi buồn trống vắng. Bút pháp tả cảnh ngụ ngôn được tác giả sử dụng một cách tài tình, thể hiện được nỗi xót xa, xót xa trong tâm hồn lạc loài.
Khép lại bài thơ là một suy nghĩ, đầy suy tư, day dứt của nhà thơ:
Năm nay đào lại nở
Không nhìn thấy đồ chơi cũ của mình
Người già sống lâu
Hồn ở đâu bây giờ?
Kết cấu đầu cuối tương ứng, với sự so sánh giữa hai hình ảnh: hoa đào nở và sự có – vắng của ông đồ ở khổ một và hai, tác giả đã làm nổi bật kết cấu của cả bài “cảnh xưa”. Người đâu rồi?” Hoa đào còn nở mà em cùng khách trôi về đâu? Câu hỏi tu từ cuối bài gợi lên một nỗi thất vọng, trống vắng đến bâng khuâng, tiếc nuối, xao xuyến trong lòng nhà thơ. lòng về cố nhân hay sự phai nhạt của nét đẹp văn hóa dân tộc đã đi vào dĩ vãng.Vì vậy, giá trị của bài thơ không chỉ dừng lại ở ý nghĩa nhân đạo mà còn thể hiện ý nghĩa nhân văn, rất đáng trân trọng. tinh thần dân tộc.
Về nghệ thuật của bài thơ, tác phẩm được viết theo thể năm chữ, đan xen với các thể thơ bát quái có trình tự, đều đặn tạo nên âm hưởng trầm lắng, u uất, phù hợp với nội dung mà tác giả muốn nói đến. Trong bài, ta thấy tác giả sử dụng rất thành công nghệ thuật tả cảnh ngụ ngôn rất độc đáo, diễn tả những thăng trầm khác nhau của thời đại cũ. Khi đang ngự trên ngai vàng, khung cảnh nhộn nhịp, màu sắc tươi vui, không khí náo nhiệt (câu 1, 2); nhưng khi ông mất, tâm trạng buồn bã của ông tràn ngập trong cảnh vật, khiến cho cảnh vật như đang mang nặng một tâm hồn con người (câu 3, 4). Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ nghệ thuật như nhân hóa, câu hỏi tu từ, so sánh, tương phản kết hợp với ngôn ngữ giàu hình ảnh đã góp phần tạo nên giá trị nghệ thuật đặc sắc. cho bài thơ. Và nhịp điệu trong bài cũng thay đổi rất linh hoạt theo từng hoàn cảnh, thời gian và tâm trạng: có lúc nhanh, dồn dập, sôi nổi (câu 1, câu 2); có lúc chậm và nặng nề (câu 3); vừa ngẫm, vừa ngẫm (khổ thơ cuối)… Tất cả đã làm nên thành công rực rỡ cho tác phẩm.
Tóm lại, bài thơ “Cố hương” của Vũ Đình Liên là một tác phẩm hay, độc đáo, có sức ám ảnh lớn đối với người đọc về những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam qua nhiều thế kỷ. Vượt ra khỏi nội dung lời văn trong tác phẩm, câu hỏi tu từ cuối bài thơ như một lời nhắc nhở tài tình của nhà thơ về việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc hôm nay và mãi mãi. mãi mãi về sau!.
Xem thêm các bài văn mẫu thuyết minh, phân tích, lập kế hoạch tác phẩm lớp 8:
Mục Lục Văn Mẫu | Ngữ văn hay lớp 8 theo từng phần:
bee-do.jsp
Các bài văn lớp 8 khác